Giới thiệu[]
本土防空の切り札、局地戦闘機「紫電改」の艦載機型です。 大馬力エンジンと空戦フラップの採用などによる優れた空戦能力で、開発・配備の遅れた烈風の穴を埋めるべく計画されました。 空母信濃が就航した暁には、たとえ烈風や烈風改が揃っていても、あえて搭載して欲しい幻の… そして実在した最後の艦上戦闘機です。
"Quân át chủ bài của lực lượng phòng không chính quốc. Phiên bản trên tàu sân bay của máy bay tiêm kích hạn chế trên đất liền 「Shiden Kai」.
Với một khả năng không chiến xuất sắc nhờ động cơ mã lực lớn, cánh nắp không chiến,... nên đã được lên kế hoạch để lấp đầy khoảng trống của những chiếc Reppuu phát triển và trang bị chậm trễ.
Vào buổi bình minh mẫu hạm Shinano được đưa vào sử dụng, dù có Reppuu và Reppuu Kai ở đó, thì Shiden vẫn muốn mơ rằng mình được trang bị...
Và đây cũng là tiêm kích hạm cuối cùng từng được thực hiện."
Trong game[]
- Có thể chế tạo.
- Nếu không tính đến những mẫu máy bay không thể chế tạo như Reppuu Kai, Shinden Kai, Reppuu (Không đội 601) thì Shiden Kai 2 là máy bay tiêm kích mạnh thứ nhì, sau Reppuu.
- Và nó cũng hiếm ra như Reppuu.
- Tuy vậy nhưng tiền nào của nấy, so với Zero Kiểu 52 ( +6) thì chỉ số AA của Shiden Kai 2 cao hơn nhiều ( +9). So với Reppuu ( +10) thì cũng không có nhiều chênh lệch cho lắm.
- Từ bản cập nhật tháng 10/2015, Shiden Kai 2 đã được cộng thêm 3 khiến nó trở nên mạnh mẽ hơn Reppuu
Thông tin bên lề[]
- Shiden Kai 2 (Shiden Mẫu 41) nguyên là phiên bản thử nghiệm trên tàu sân bay của máy bay tiêm kích N1K-J Shiden.
- Từng được một xưởng kĩ thuật hàng không dưới sự chỉ huy của đại úy Yamamoto Shigehisa[1] thử nghiệm cất/hạ cánh trên tàu sân bay Shinano.
- Và giống như đoạn giới thiệu bên trên, Shiden là mẫu tiêm kích cuối cùng được cất cánh từ tàu sân bay. Phiên bản tiêm kích hạm cho Reppuu hay Zero Kiểu 64 trên thực tế chỉ tồn tại trên bản vẽ.
- Trong đoạn giới thiệu cũng có nói "là phiên bản trên tàu sân bay của Shiden Kai", nhưng... là Shiden Kai nào?
- Thực ra, Shiden Kai 2 (N1K3-A a.k.a Shiden Mẫu 41) là phiên bản trên tàu sân bay của chiếc Shiden Kai 1 thử nghiệm (N1K3-J a.k.a Shiden Mẫu 31), và Shiden Kai 1 lại là bản nâng cấp từ Shiden Kai (Shiden Mẫu 12 và Shiden Mẫu 12A).[2].
- Shiden Kai 1 được trang bị thêm 2 súng máy 13mm ở mũi, và mặc dù có tên là "thử nghiệm" nhưng cũng được sản xuất đại trà.
- Có thể mang theo 2 bom 250kg nên thậm chí có thể xem là tiêm kích-ném bom.
- Mặc dù trang bị nặng nề, nhưng theo thiếu tá Yamamoto thì "nó hạ cánh trên tàu sân bay còn tốt hơn Zero".
- Còn có một phiên bản trên tàu sân bay nữa là Shiden Kai 4 (Shiden Mẫu 42 a.k.a N1K4-A) dựa trên chiếc Shiden Kai 3 (Shiden Mẫu 32 a.k.a N1K4-J). Tuy nhiên mẫu này có được chế tác hay không thì chưa rõ.
- Thực ra, Shiden Kai 2 (N1K3-A a.k.a Shiden Mẫu 41) là phiên bản trên tàu sân bay của chiếc Shiden Kai 1 thử nghiệm (N1K3-J a.k.a Shiden Mẫu 31), và Shiden Kai 1 lại là bản nâng cấp từ Shiden Kai (Shiden Mẫu 12 và Shiden Mẫu 12A).[2].
- Trên thực tế, Shiden Kai 2 chỉ được sản xuất quy mô rất nhỏ, do đến thời điểm ấy thì hầu như chẳng còn cái tàu sân bay nào cho nó bay nữa rồi.
- Mẫu Shiden đầu tiên (Shiden Mẫu 11) vốn là phiên bản nâng cấp từ chiếc thủy phi cơ N1K Kyoufuu. Hay nói cách khác, Shiden chỉ là thủy phi cơ bỏ đi 2 cái phao nổi.
- Điểm khác biệt giữa phiên bản tiêm kích và thủy phi cơ là động cơ đổi từ loại "Kasei" sang "Homare" và thiết kế càng đáp có thể thu lại.
- Và sau đó Shiden Mẫu 21 (Shiden Kai) ra đời, khắc phục những yếu điểm của người tiền nhiệm.
- Vì nó vốn được dùng làm tiêm kích đánh chặn xuất phát từ căn cứ đất liền cho nên tầm hoạt động không được xa như chiếc tiêm kích hạm Zero. Nhưng trừ khuyết điểm ấy ra thì tính năng của Shiden vượt trội hoàn toàn so với Zero.
- Và do sự chậm trễ của Reppuu mà Shiden được chọn làm máy bay tiêm kích chủ lực kế nhiệm Zero.
- Về mặt hình thức, bóng của Shiden có dáng dấp gần giống như chiếc F4F Wildcat còn Shiden Kai lại trông na ná F6F Hellcat, thành ra đã có trường hợp quân Nhật nhận lầm và bắn cả vào chúng.
- Tên mã mà Đồng minh đặt cho Shiden là George.